Đam mê lĩnh vực kinh doanh, quan tâm đến những biến động của nền kinh tế Có tư duy logic, nhạy bén, kỹ năng giao tiếp tốt, có khả năng thuyết phục và đàm phán giỏi Năng động, tự tin, mạnh mẽ, quyết đoán Chịu áp lực tốt, thích môi trường cạnh tranh Học quản trị kinh doanh ra trường làm gì?
W6QJ. Cạnh tranh bằng vốn tri thức minh họa Khều. TBKTSG – Trong doanh nghiệp, vốn tri thức intellectual capital thể hiện thông qua con người, cấu trúc tổ chức, tài sản tri thức intellectual assets và sở hữu trí tuệ intellectual properties. Việc hiểu và đo lường vốn tri thức sẽ giúp doanh nghiệp tìm kiếm, phát triển và duy trì lợi thế cạnh tranh. Vốn tri thức và tài sản tri thức Con người sở hữu tri thức của mình. Bản thân mỗi người là một nguồn vốn tri thức. Khi tham gia vào một doanh nghiệp, họ sẽ trở thành tài sản tri thức của doanh nghiệp. Nguồn vốn này có thực sự phát huy, trở thành một tài sản giá trị hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đôi khi nguồn vốn tri thức tốt chưa chắc đã trở thành một tài sản giá trị. Mỗi doanh nghiệp đều có vốn tri thức. Nguồn vốn này thể hiện ở bản quyền tác giả, kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm kinh doanh, cơ sở dữ liệu, lòng tin vào nhãn hiệu và sự tài tình của các nhà quản trị cấp cao. Vốn con người, một phần của vốn tri thức, cũng được xem là tài sản vô hình như những tài sản vô hình khác của doanh nghiệp như uy tín, hình ảnh và nhãn hiệu. Những tài sản vô hình này cùng với các tài sản hữu hình khác như tiền và hữu sản trong doanh nghiệp hình thành nên thị giá của tổ chức kinh doanh. Kinh nghiệm, kỹ năng và trình độ của nhân viên tạo nên vốn con người trong tổ chức. Nguồn vốn này được tiếp thu, tích lũy và chuyển giao qua thời gian, tạo nền tảng vững chắc cho tổ chức phát triển. Tài sản vô hình như tài liệu sản xuất, cấu trúc tổ chức hình thành vốn cấu trúc. Nguồn vốn này là hạ tầng hỗ trợ cho vốn con người, đồng thời động viên nhân lực tạo ra và phát triển tri thức. Những biểu hiện cụ thể của kiến thức có thể sở hữu và trao đổi kinh doanh được gọi là tài sản tri thức. Nếu tài sản tri thức được pháp luật bảo chứng sẽ trở thành sở hữu trí tuệ. Có năm loại sở hữu trí tuệ là bản quyền patents, tác quyền copyrights, thương quyền trademarks, bí mật thương mại trade secrets, và bí quyết know-how. Tuy nhiên, doanh nghiệp thường khó lượng hóa hay vốn hóa những cơ hội do vốn tri thức tạo ra bởi vì chưa có phương pháp nhận dạng và đo lường những tài sản tri thức mà doanh nghiệp đang sở hữu. Những khía cạnh khác của vốn tri thức bao gồm các yếu tố như các quan hệ kinh doanh với đối tác, sự trung thành của khách hàng, kiến thức và năng lực của nhân viên. Lợi ích của việc đầu tư vào các kỹ năng cho nhân viên cũng giống như lợi ích từ việc đầu tư vào những tích sản khác. Nhưng sự so sánh này có giới hạn bởi doanh nghiệp có thể sở hữu tích sản nhưng khó có thể sở hữu con người. Những cách ghi chép kế toán truyền thống không thể hiện được sự khác biệt giữa giá trị sổ sách và thị giá doanh nghiệp. Đó chính là giá trị tạo ra của tài sản tri thức. Có một khoảng cách lớn giữa giá trị của doanh nghiệp trên bảng cân đối tài khoản và đánh giá của nhà đầu tư về những giá trị này. Trong hầu hết các doanh nghiệp hiện nay, sự đánh giá của thị trường chủ yếu thể hiện ở nhãn hiệu brand nhưng chưa thấy được vốn tri thức trong đó. Lịch sử kinh doanh cho thấy rằng những khoản đầu tư lớn vào vốn con người là công cụ chính tạo ra giá trị nhưng thường lại không thể hiện trên bảng cân đối tài sản. Những giá trị của tài sản tri thức như bản quyền tác giả hay thương quyền lại không được đánh giá vì giá trị của những tài sản này chỉ có thể sử dụng trong tương lai nhưng lại được ghi nhận là chi phí. Nếu không được tận dụng và áp dụng triệt để, tài sản tri thức không tạo ra giá trị gia tăng. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể nào quản lý tri thức nếu không biết nhận dạng và sử dụng loại tài sản này. Sử dụng vốn tri thức Vốn con người là một trong những yếu tố chính của thị giá doanh nghiệp, đồng thời giá trị này cũng nên được thể hiện trong tài khoản doanh nghiệp để nhà đầu tư hay những ai quan tâm thấy được tổng giá trị của doanh nghiệp. Trong đó cần làm nổi bật tài sản vô hình và tài sản hữu hình. Quá trình xác định các đại lượng cũng như thu thập và phân tích thông tin liên quan đến những đại lượng này sẽ giúp doanh nghiệp nhận thấy cần phải làm gì để tìm kiếm, lưu giữ, phát triển và tận dụng hiệu quả nguồn vốn con người. Đo lường giá trị nguồn vốn con người có thể dùng làm cơ sở cho các chiến lược nhân sự liên quan đến phát triển các năng lực cốt lõi của tổ chức. Những đại lượng này có thể được dùng để kiểm soát quá trình tiến bộ trong việc thực thi và đạt các mục tiêu nguồn nhân lực và đánh giá thành quả trong công tác quản lý nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Đặc biệt là làm cơ sở cho vấn đề đào tạo, đãi ngộ và khen thưởng. Tuy nhiên, rất khó có thể đặt các con số vào các giá trị tài sản con người bởi những giá trị như vậy phải dựa trên những giả thiết mà không phải ai cũng chấp nhận. Ngoài ra, độ tin cậy của các đại lượng đó không được kiểm chứng bằng những biện pháp đảm bảo. Các chuẩn mực kế toán truyền thống chưa có các hướng dẫn về cách ghi chép giá trị của các tài sản này. Tài sản vô hình có thể ở dạng như bản quyền, uy tín, chi phí nghiên cứu và phát triển nhưng lại không đề cập đến kiến thức của nhân viên, những thành quả xuất sắc đã đạt được, những khoản đầu tư cho đào tạo. Rất khó có thể định giá trị của vốn con người nhưng sự mất mát của vốn con người cũng tốn kém không ít. Các báo cáo tài chính không cho thấy được sự mất mát vốn con người, nhưng những tác động của sự kiện này có thể thấy được. Nghiên cứu của KPMG 1999 cho thấy rằng sau khi mất đi những nhân viên chủ chốt, 43% các tổ chức gặp phải những thiệt hại liên quan đến quan hệ của khách hàng, 50% cho rằng mất đi những thông tin quan trọng, và 10% cho rằng thu nhập của doanh nghiệp giảm đáng kể. Để tính giá trị của vốn tri thức, các nghiên cứu cho rằng đối với những công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, giá trị của vốn tri thức là sự khác biệt giữa thị giá và giá trị sổ sách của doanh nghiệp. Mặt khác, chi phí để quản lý những tri thức này cũng không nhỏ và cũng khó đo lường. Vì không thể định nghĩa rõ chi phí của quản lý tri thức, các doanh nghiệp khó có thể tính toán hiệu ứng trên các bảng báo cáo tài chính. Sự khác biệt giữa vốn tri thức và vốn tài chính thể hiện ở một điểm vốn tài chính phản ánh sự tiến bộ và thành tựu trong quá khứ, vốn tri thức phản ánh chính xác hơn sự tăng trưởng và thành quả trong tương lai. Vấn đề của doanh nghiệp là làm thế nào để tạo ra, duy trì và phát triển nguồn vốn tri thức. Giá trị của nguồn vốn có thể tăng lên do đầu tư và ứng dụng, nhưng để những giá trị này thực sự có giá trị thì cần có môi trường vận dụng. Đối với doanh nghiệp, công việc sẽ phức tạp hơn, vừa phải huy động, phát triển và sử dụng nguồn lực để tạo ra phần lưu của nguồn vốn. Giá trị có thực sự tạo ra hay không còn phụ thuộc vào sự phát triển bền vững của nguồn vốn. Hơn thế nữa, nguồn vốn này cũng dễ dàng mất vào tay đối thủ, vì vậy cần quản lý nguồn vốn này một cách cẩn trọng. Với bản thân nhân viên, họ có thể tự đào tạo hoặc nhận sự đào tạo của tổ chức để cải tiến phần trữ vốn của mình, nhưng cũng cần có môi trường để tạo ra giá trị thực. Đối với từng nhân viên, họ có quyền kỳ vọng sẽ thu lợi từ việc đầu tư thời gian và nỗ lực trong tổ chức dưới hình thức phát triển kỹ năng và khả năng; họ sẽ có cơ hội để tăng khả năng có được việc làm ngay cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp. Việc này đồng nghĩa với giá trị nguồn vốn có thể thay đổi khi được sử dụng ở các môi trường khác nhau. ———- * Giám đốc chương trình Maastricht MBA, Đại học Bách khoa TPHCM
Triết lý kinh doanh là gì? Bạn nên tìm hiểu khái niệm này trước khi học hỏi sự thành công từ các triết lý kinh doanh của những vị CEO nổi tiếng trên thế giới để có thể hiểu hết được những vị CEO đó họ đã làm gì để đi đến thành công. Blog ATP Academy sẽ gợi ý cho bạn Top 20 triết lý kinh doanh thành công, với hy vọng mong rằng bài viết này sẽ giúp bạn thay đổi tư duy triết lý kinh doanh trong hoạt động. KHOÁ ĐÀO TẠO SEO FOUNDATION 2022 Đào tạo SEO theo phương pháp thực hành Triết lý kinh doanh là gì?Ý nghĩa triết lý kinh doanh đối với doanh nghiệp11 triết lý kinh doanh dễ dàng làm thay đổi cuộc sống của bạnTop 20 Triết lý kinh doanh thành côngKết luận Triết lý kinh doanh là gì? Triết lý kinh doanh là một tập hợp các sự tin tưởng và nguyên tắc mà một công ty cố gắng làm việc để hướng đến. Điều này hay được gọi là tuyên bố về sứ mạng hoặc tầm nhìn của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh trình bày các mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp và mục đích của nó. Triết lý kinh doanh thường được thể hiện qua lý do tồn tại và các khái niệm hành động. Được bắt nguồn từ những thực tiễn trong cuộc sống, hay từ quá trình sản xuất – bán hàng, . . . Được tóm lại lại và rút ra những tư tưởng chủ đạo như nguyên tắc về đạo lý và công thức quản lý để dẫn dắt các hành vi. Nếu như các nhà quản trị hay doanh nghiệp có khái niệm về triết lý đúng đắn, họ sẽ luôn hiểu được cách thu hút, sử dụng và đãi ngộ chúng ta một cách đúng cách, giữ được người lao động giỏi dài hạn. Hoặc trong chính công thức marketing, họ hiểu được các tư tưởng như “ khách hàng là yếu tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp” thì họ sẽ có những hành vi đáp ứng tốt các mong muốn, ước muốn của khách hàng tốt nhất. Ý nghĩa triết lý kinh doanh đối với doanh nghiệp Là phương thức để giáo dục và phát triển nguồn nhân công Triết lý bán hàng là cốt lõi của văn hóa công ty Triết lý kinh doanh là cơ sở quản lý kế hoạch của công ty >> Khám phá ngay 10+ khóa học kinh doanh online MIỄN PHÍ tốt nhất 2021 không nên bỏ qua 11 triết lý kinh doanh dễ dàng làm thay đổi cuộc sống của bạn 1. Đừng bào chữa cho lỗi lầm, hãy cải tiến Trong hầu hết các trường hợp, tất cả mọi thứ sẽ không hoạt động theo cách mà bạn muốn. Nó có thể là bất cứ điều gì từ dự báo doanh thu bị thiếu, không thể khởi chạy hàng hóa đúng như thời gian bạn dự định. Chắc chắn sẽ có rất nhiều lý do để bào chữa cho nguyên nhân tại sao Mọi thứ lại không đi theo cách bạn muốn, tuy nhiên điều đấy sẽ không làm bạn hiệu quả hơn, đơn giản chỉ vì nó không giúp bạn giải quyết được vấn đề. Thay vì bào chữa, hãy tập trung xử lý nỗi lo, có thể sẽ không sửa chữa được ngay lập tức, tuy nhiên miễn là bạn đang thực hiện cải tiến, thì cuối cùng bạn được giá trị xứng đáng. 2. Đừng dừng lại khi mệt mỏi, chỉ dừng lại khi đã xong Là một doanh nhân, ắt hẳn có đôi lúc bạn có thể cảm nhận thấy mệt mỏi, thậm chí mong muốn bỏ cuộc… đặc biệt là khi mọi việc xảy ra không tốt đẹp. Và những gì giúp bạn thành công chỉ có thể là kiên trì. Nó không quan trọng cho dù bạn đã rất mệt mỏi, tự cảm nhận thấy đã làm việc đủ giờ. nhưng đừng bao giờ dừng lại cho đến khi mọi việc đã xong. Thời điểm bạn dừng lại là bạn thất bại. Miễn là bạn cứ tiếp tục, cuối cùng bạn có thể hoàn thiện được mục đích. 3. Trung thực là món quà tốn kém, không mong đợi từ người rẻ tiền Là một doanh nhân, bạn có thể phải tìm kiếm đối tác, cộng sự để có thể nhận lại những phản hồi và lời khuyên. Tuy nhiên bạn hãy nhớ rằng, không phải toàn bộ lời khuyên đều có giá trị như nhau. Lời khuyên tốt nhất bạn có thể nhận được là sự thật. sự thật có thể gây tổn thương, tuy nhiên nó sẽ giúp bạn nhìn nhận ra vấn đề, từ đấy tiết kiệm được công sức, thời gian và tiền bạc. Đừng chờ đợi những lời khuyên chỉ chú ý đến cảm giác của bạn, vì Điều này sẽ không giúp bạn đạt được các mục tiêu của mình, nó chỉ làm bạn dậm chân tại chỗ mà thôi. 4. Làm việc chăm chỉ trong lặng im và giữ thành công cho riêng mình Khi bạn làm tốt, chắc hẳn bạn có thể muốn thể hiện, mong muốn nói với mọi người về thành công và thành tích mà bạn đạt được. Nhưng rồi về lâu dài, bạn có thể hiểu, mua đồ đắt tiền sẽ không làm bạn hạnh phúc, cũng giống như việc nói với những người xung quanh về thành công của bạn chỉ khiến họ nghĩ rằng bạn kiêu ngạo, thậm chí làm ra sự cạnh tranh nhiều hơn. Cần phải chú ý vào hoạt động của bạn vì suy cho cùng bạn không hề mong đợi có quá là nhiều đối thủ cạnh tranh với mình. 5. Đừng lúng túng khi không cùng tư duy với người khác Việc bị người khác tác động trên con đường kinh doanh là điều khó tránh. Nếu như bạn không chú ý vào mô hình bán hàng cốt lõi của mình, bạn có thể thấy mình đang loay hoay trong những dự định và kết quả là nhận về con số 0. Nếu như mong muốn làm tốt hoạt động bán hàng của mình, bạn phải cần bắt đầu gặp gỡ và giao lưu với những người có cùng chí hướng. bằng việc “sống chung” với những người có cuộc sống thành công, tư tưởng tích cực, bạn sẽ gần như không có khi bị chi phối bởi những suy nghĩ tiêu cực. 6. Đằng sau người thành công là rất nhiều năm không thành công Doanh nhân Neil Patel đã từng chia sẻ ” Khi mọi người nhìn vào những gì tôi đã hoàn thành, hầu hết họ đều nghĩ rằng tôi đã thực hiện nó trong vài năm mới đây. nhưng họ không hề biết là tôi đã từng là một doanh nhân trong hơn 10 năm. Trong khoảng 10 năm đó, tôi đã mất hàng triệu đô la và mắc vô số lỗi lầm”. Hầu hết các người kinh doanh thành công sẽ không nói với bạn số lần họ khởi nghiệp, thực tế, rất phần đông người thất bại trước khi họ thành công. Vì lẽ đó, miễn là bạn vẫn tiếp tục, thì phần trăm thành công của bạn có thể tăng lên theo thời gian. Sống theo cách mà nếu có ai đó nói xấu bạn, sẽ không ai tin điều đó Hoạt động của doanh nghiệp sẽ có lúc “lên” và “xuống”, tuy nhiên một điều bạn nên bảo vệ hơn bất cứ điều gì khác là danh tiếng của bạn. Danh tiếng của bạn sẽ liên quan đến bất kì dự án bán hàng mới và công việc mà có thể bạn sẽ rất cố gắng để có được sau này. Hãy coi trọng danh tiếng của bạn như thể nó có thành quả hơn vàng, mãi mãi giúp đỡ người khác và không thể nào nói xấu về người khác. Việc này sẽ rất có ích, vì nếu có ai đó nói xấu về bạn, sẽ không ai tin vào điều đó. 7. Hãy biết ơn những người giúp người giúp cho bạn theo đuổi ước mong Bạn có thể không thể hoàn thành ước mơ của mình nếu như vẫn chưa có sự giúp đỡ của người khác. Khi đã đạt được ước mong của mình, hãy chắc chắn rằng bạn không thể quên những người đã giúp bạn có được điều đấy. Việc tìm hiểu mong muốn của họ để giúp đỡ cũng là điều mà bạn nên làm. 8. Bạn đang chông gai không có nghĩa là đang thất bại Chỉ vì bạn đang khó khăn, không nghĩa là bạn đang thất bại. Mỗi thành công lớn đều đòi hỏi những thất bại cụ thể. Nếu đơn giản trở thành doanh nhân và không gặp phải bất cứ chông gai gì thì ắt hẳn ai cũng biến mình thành doanh nhân. Do đó, nếu như gặp khó khăn, hãy tranh đấu và đừng bỏ cuộc, bắt đầu tiến về phía trước cho đến khi mà bạn nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm. 9. Điều khó mở nhất là một tâm trí khép kín Bất kể bạn làm tốt ra sao, nhưng với những người có tâm trí khép kín, cảm nhận thấy bản thân mọi người biết hết và họ không muốn nghe bạn nói, thì mọi cố gắng đều là con số 0. Bạn có thể cố gắng kiên trì với những người như thế này, nhưng điều khó mở đặc biệt là một tâm trí khép kín. Do đó thay vì lãng phí thời gian, hãy suy xét trước khi lựa chọn ai đó giúp đỡ bạn trong hoạt động bán hàng. 10. Nếu bạn giúp mọi người nhận được những gì họ mong muốn, bạn có thể có được những gì bạn mong muốn Một trong những dấu hiệu của kinh doanh là những mối quan hệ, bạn không thể bắt đầu yêu cầu người khác ủng hộ mình nếu bạn không “trả nợ” cho họ. Và thực tế kể rằng, nếu bạn giúp hỗ trợ mọi người, họ sẽ đồng hành cùng bạn thêm một đoạn đường, và nếu bạn giúp hỗ trợ những người không chờ đợi bất cứ đền đáp gì trái lại, thì mọi người sẽ đồng hành cùng bạn một quãng đường rất dài. >> Xem thêm Tổng hợp 50 cuốn sách hay về kinh doanh nổi tiếng mọi thời đại Top 20 Triết lý kinh doanh thành công 1. Câu hỏi thường thường được hỏi trong bán hàng đấy là “Tại sao?”. Đó là một câu hỏi hay, nhưng câu hỏi có thành quả tương đồng đấy chính là “Tại sao không?”. Jeff Bezos, CEO của Amazon 2. Mất 20 năm để xây dựng danh tiếng và 5 phút để huỷ hoại nó. nếu như bạn tưởng tượng đến điều đấy, bạn sẽ hành xử khác. Warren Buffett, CEO của Berkshire Hathaway 3. Trong thực trạng mà xã hội thay đổi luôn luôn thì những nhãn hiệu tồn tại lâu dài là những thương hiệu được xây dựng từ trái tim – điều đấy khiến chúng lâu bền và chân thật hơn. Nền tảng của chúng cũng vững chắc hơn vì chúng được xây dựng nhãn hiệu dựa trên chính tâm hồn của chúng ta, không phải từ truyền thông marketing. Những doanh nghiệp đúng có nghĩa là những doanh nghiệp tồn tại dài hạn. Howard Schultz, CEO của Starbucks 4. Tôi tin rằng khoảng 1 nửa những gì khác biệt giữa doanh nhân thành công và không thành công là ở sự kiên trì tuyệt đối. Steve Jobs, CEO của Apple 5. Toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng. Lớn sẽ không còn đánh bại nhỏ mà nhanh sẽ đánh bại chậm. Rupert Murdoch, CEO của 21st Century Fox 6. Nếu như bạn đang thay đổi toàn cầu này, có nghĩa là bạn đang thực hiện những điều cốt yếu. Bạn trở nên hào hứng thức dậy vào buổi sáng. Larry Page, CEO của Google 7. Chúng ta đủ lớn sẽ thừa nhận sai lầm, đủ thông minh sẽ tạo ra lợi nhuận, và đủ vững chãi để sửa chữa những sai lầm ấy. John C. Maxwell, CEO của The John Maxwell Company 8. Với tôi kinh doanh không phải diện một bộ vest hay làm hài lòng các cổ đông. Nó bắt đầu từ chính bạn, ý tưởng của bạn và sự chú ý vào những thứ quan trọng. Sir Richard Branson, CEO của Virgin Group 9. Tôi có trách nhiệm với công ty này. Tôi đứng phía sau các mục đích. Tôi nắm từng chi tiết, và tôi nghĩ rằng CEO phải là một nhà quản lý có đạo đức… Tôi nghĩ đặt chuẩn mực cao là đúng, tuy nhiên đừng để mọi người hiểu sai, nó là sự biểu hiện với liêm chính. Đó là những điều mà bạn phải cần làm. Jeffrey Immelt, CEO của General Electric 10. Đồng vốn không khan hiếm. Tầm nhìn mới khan hiếm. Sam Walton, CEO của Wal-Mart 11. Tôi nghĩ để thành lập một doanh nghiệp, bạn cần làm 2 điều đúng – định hướng rõ ràng đối với điều mà bạn muốn làm và chọn những người tuyệt vời để thực hiện – khi đó bạn có thể làm tốt. Mark Zuckerberg, CEO của Facebook 12. Kinh nghiệm dạy tôi rất nhiều điều. Thứ đặc biệt là hãy tin vào linh cảm của bạn, bất kể những thứ trên giấy tờ có vẻ hay ho như thế nào đi chăng nữa. thứ hai, bạn gần như sẽ kiếm được nhiều tiền hơn với những thứ bạn hiểu rõ. Thứ ba, đôi khi thương vụ đầu tư thành công nhất của bạn lại không phải là cái bạn làm. Donald Trump, CEO của Trump Organization 13. Kiên nhẫn chính là yếu tố của thành công. Bill Gates, CEO của Microsoft >>> Xu hướng kinh doanh mới nhất 2021 cho người kinh doanh 14. Đa dạng hóa và toàn cầu hóa là chìa khóa của tương lai. Fujio Mitarai, CEO của Canon 15. Khoảng cách giữa số 1 và số 2 là không chỉnh sửa. Nếu bạn mong muốn khiến cho công ty, tổ chức của mình hiệu quả hơn, bạn phải hoàn thành bản thân trước. Lúc đó công ty, tổ chức của bạn cũng sẽ tốt lên như bạn. Đấy là bài học lớn nhất. Fujio Mitarai, CEO của Canon 16. Tầm quan trọng hàng đầu của con người là đặt một số luật lệ cũ qua một bên và làm ra những luật lệ mới, đồng thời bám sát người tiêu dùng – coi họ muốn gì và họ muốn đi đến đâu. Robert Iger, CEO của Walt Disney 17. Có nhiều điều tạo nên sự thành công. Tôi không thích làm chỉ để làm – mà thích làm thật sự. Tôi thích làm mọi điều để công ty thành công. Tôi không sử dụng thời gian cho các sở thích của riêng mình. Michael Dell, CEO của Dell Computers 18. Điều cốt yếu mà tôi sớm học được đấy là bạn luôn phải đặt ra một mục đích nhất định trong cuộc sống, cả ngắn hạn và lâu dài, cũng như bạn làm với hoạt động của mình vậy. Đặt ra những mục tiêu như thế giúp bạn có những kế hoạch bài bản để hoàn thành và thực hiện nó. Chúng tôi áp dụng Việc này trong hoạt động, dù hiếm khi sử dụng chúng trong cuộc sống của mình. Denise Morrison – CEO của Campbell Soup 19. Công ty nào mà bây giờ lo lắng nguy cơ và luôn bao biện bằng việc “Chúng tôi nghĩ giờ chưa phải lúc thích hợp”. Thế thì chẳng bao giờ có cái gọi là “thời điểm phù hợp đâu”. Kevin Plank – CEO của Under Armour Kết luận Suy cho cùng mục tiêu các bạn hướng đến đấy là sự tăng trưởng của tổ chức bạn hay chính bản thân các bạn. Hãy luôn luôn nỗ lực vì lợi ích chung, và thực hiện công việc đến khi không còn sức lực để bắt đầu mới dừng lại. Từ đấy bạn có thể có những bài học về triết lý kinh doanh và rút ra được cho mình những triết lý hữu ích, có thể ứng dụng được. Mong là bài biết có thể giúp ích được cho bạn. Tư vấn về các khóa học Content, SEO, Digital Marketing… liên hệ SĐT/Zalo Miss Dung Facebook Thanh Dung
Kinh tế tri thức là hệ thống kinh tế trong đó sản xuất hàng hóa và dịch vụ chủ yếu dựa trên các hoạt động sử dụng tri thức nhằm góp phần thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật và khoa học. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức? Sự phát triển của nền kinh tế tri thức?Nền kinh tế tri thức có lực lượng lao động có kỹ năng cao trong môi trường kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô; các tổ chức và ngành công nghiệp tạo ra việc làm đòi hỏi các kỹ năng chuyên biệt để đáp ứng nhu cầu thị trường toàn cầu. Tri thức được xem như một đầu vào bổ sung cho lao động và vốn. Về nguyên tắc, vốn cá nhân cơ bản của một người là kiến thức cùng với khả năng thực hiện để tạo ra giá trị kinh tế. Nền kinh tế tri thức hay nền kinh tế dựa trên tri thức là hệ thống kinh tế trong đó sản xuất hàng hóa và dịch vụ chủ yếu dựa trên các hoạt động sử dụng tri thức nhằm góp phần thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật và khoa học. Yếu tố quan trọng của giá trị là sự phụ thuộc nhiều hơn vào vốn con người và tài sản trí tuệ đối với nguồn cung cấp các ý tưởng, thông tin và thực tiễn đổi mới. Các tổ chức được yêu cầu phải tận dụng “kiến thức” này vào sản xuất của mình để kích thích và làm sâu sắc thêm quá trình phát triển kinh doanh. Ít phụ thuộc hơn vào đầu vào vật chất và tài nguyên thiên nhiên. Nền kinh tế dựa trên tri thức dựa vào vai trò quan trọng của tài sản vô hình trong môi trường của các tổ chức trong việc tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện đại. Trong nền kinh tế tri thức, các công việc đòi hỏi tay nghề cao đòi hỏi kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng quan hệ xuất sắc như giải quyết vấn đề, khả năng linh hoạt giao tiếp với nhiều lĩnh vực chuyên ngành cũng như khả năng thích ứng với những thay đổi trái ngược với việc di chuyển hoặc chế tạo các vật thể vật chất trong sản xuất thông thường- các nền kinh tế dựa trên. Nền kinh tế tri thức trái ngược với nền kinh tế nông nghiệp, trong đó hoạt động kinh tế chủ yếu là canh tác tự cung tự cấp, trong đó yêu cầu chính là lao động chân tay hoặc nền kinh tế công nghiệp hóa có sản xuất hàng loạt, trong đó phần lớn lao động tương đối phổ thông. Nền kinh tế tri thức nhấn mạnh tầm quan trọng của kỹ năng trong nền kinh tế dịch vụ, giai đoạn thứ ba của quá trình phát triển kinh tế, còn được gọi là nền kinh tế hậu công nghiệp. Nó liên quan đến nền kinh tế thông tin, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin như vốn phi vật chất và nền kinh tế kỹ thuật số, nhấn mạnh mức độ mà công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại. Đối với các công ty, tài sản trí tuệ như bí mật thương mại, tài liệu có bản quyền và các quy trình được cấp bằng sáng chế trở nên có giá trị hơn trong nền kinh tế tri thức so với các thời đại trước đây. Kinh tế tri thức tiếng Anh là Knowledge – BasedEconomy. 2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức + Nền kinh tế dựa trên tri thức và vốn con người Một hệ thống kinh tế không dựa trên tri thức được coi là không thể tưởng tượng được. Nó mô tả quá trình tiêu dùng và các hoạt động sản xuất được thoả mãn từ việc áp dụng chuyên môn của người lao động – vốn tri thức và thường thể hiện mức độ đáng kể của các hoạt động kinh tế cá thể trong các nền kinh tế phát triển hiện đại thông qua việc xây dựng một nền kinh tế toàn cầu tiên tiến và kết nối với nhau, nơi các nguồn tri thức là những người đóng góp quan trọng. Khái niệm hiện tại cho “kiến thức” có nguồn gốc từ các nghiên cứu lịch sử và triết học của Gilbert Ryle và Israel Scheffler, những người đã tiến hành kiến thức đến các thuật ngữ “kiến thức thủ tục” và “kiến thức khái niệm” và xác định hai loại kỹ năng “năng lực hoặc cơ sở thường xuyên” và “kỹ năng quan trọng” đó là hiệu suất thông minh; và nó được xây dựng thêm bởi Lundvall và Johnson, người đã định nghĩa “kiến thức” về mặt kinh tế làm nổi bật bốn phạm trù lớn + Lực lượng lao động có trình độ và kỹ năng Sự hình thành của nền kinh tế tri thức mạnh mẽ đòi hỏi người lao động phải có khả năng liên tục học hỏi và áp dụng các kỹ năng của họ để xây dựng và thực hành kiến thức một cách hiệu quả. + Cơ sở hạ tầng thông tin dày đặc và hiện đại là khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn lực công nghệ thông tin và truyền thông ICT nhằm vượt qua rào cản về chi phí giao dịch cao và tạo điều kiện hiệu quả trong việc tương tác, phổ biến và xử lý các nguồn thông tin và tri thức. + Hệ thống đổi mới hiệu quả mức độ đổi mới lớn trong các công ty, ngành và quốc gia để theo kịp với công nghệ toàn cầu mới nhất và trí tuệ con người để sử dụng nó cho nền kinh tế trong nước. + Chế độ thể chế hỗ trợ khuyến khích tinh thần kinh doanh và sử dụng tri thức Một hệ thống nền kinh tế cần cung cấp các biện pháp khuyến khích để cho phép huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích tinh thần kinh doanh. + Sự tiến bộ của nền kinh tế dựa trên tri thức xảy ra khi các nền kinh tế toàn cầu thúc đẩy những thay đổi trong sản xuất vật chất, cùng với sự ra đời của các cơ chế lý thuyết kinh tế phong phú sau chiến tranh thế giới thứ hai có xu hướng tích hợp khoa học, công nghệ và kinh tế. Peter Drucker đã thảo luận về nền kinh tế tri thức trong cuốn sách – Người điều hành hiệu quả năm 1966, nơi ông mô tả sự khác biệt giữa người lao động chân tay và người lao động tri thức. Người lao động chân tay là người lao động bằng chính đôi tay của họ và sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Ngược lại, nhân viên tri thức làm việc bằng đầu chứ không phải bằng tay và tạo ra ý tưởng, kiến thức cũng như thông tin. Các định nghĩa xung quanh “tri thức” được coi là mơ hồ trong điều kiện chính thức hóa và mô hình hóa nền kinh tế tri thức, vì nó là một khái niệm tương đối. Ví dụ, không có đủ bằng chứng và cân nhắc về việc liệu “xã hội thông tin” có thể phục vụ hoặc hoạt động như một “xã hội tri thức” thay thế cho nhau hay không. Thông tin nói chung, không tương đương với kiến thức. Việc sử dụng chúng phụ thuộc vào sở thích cá nhân và nhóm “phụ thuộc vào nền kinh tế”. Thông tin và kiến thức cùng là nguồn lực sản xuất có thể tồn tại mà không cần tương tác với các nguồn khác. Các tài nguyên có tính độc lập cao với nhau theo nghĩa là nếu chúng kết nối với các nguồn lực có thể sử dụng được, chúng chuyển thành các yếu tố sản xuất ngay lập tức; và các yếu tố sản xuất hiện diện chỉ để tương tác với các yếu tố khác. Khi đó, tri thức gắn liền với thông tin trí tuệ được cho là một yếu tố sản xuất trong nền kinh tế mới được phân biệt với các yếu tố sản xuất truyền thống. 3. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức Ngay từ những ngày đầu của các nghiên cứu kinh tế, mặc dù các nhà kinh tế đã nhận ra mối liên hệ thiết yếu giữa tri thức và tăng trưởng kinh tế, nhưng nó vẫn chỉ được coi là một yếu tố bổ sung trong các yếu tố kinh tế. Ý tưởng đằng sau đã thay đổi trong những năm gần đây khi lý thuyết tăng trưởng mới ca ngợi kiến thức và công nghệ trong việc nâng cao năng suất và tiến bộ kinh tế. Cho đến nay, xã hội phát triển đã chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào nông nghiệp, tức là thời kỳ tiền công nghiệp, nơi nền kinh tế và của cải chủ yếu dựa vào nông nghiệp, sang nền kinh tế công nghiệp nơi khu vực sản xuất đang bùng nổ. Vào giữa những năm 1900, các nền kinh tế thế giới hướng tới một hệ thống hậu công nghiệp hoặc sản xuất hàng loạt, trong đó nó được thúc đẩy bởi lĩnh vực dịch vụ tạo ra của cải lớn hơn so với công nghiệp sản xuất; đến cuối những năm 1900 – 2000, kinh tế tri thức nổi lên với điểm nổi bật là sức mạnh của tri thức và khu vực vốn nhân lực, được đánh dấu là giai đoạn phát triển mới nhất của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu. Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, nền kinh tế tri thức đã trở nên gắn liền với các lĩnh vực dựa trên các ngành công nghiệp công nghệ cao và chuyên sâu về nghiên cứu do nhu cầu tăng đều đặn về các đổi mới dựa trên khoa học tinh vi. Nền kinh tế tri thức hoạt động khác với quá khứ vì nó được xác định bởi những biến động đôi khi được gọi là cuộc cách mạng tri thức trong các đổi mới công nghệ và nhu cầu cạnh tranh toàn cầu về sự khác biệt với hàng hóa và dịch vụ mới, và các quá trình phát triển từ cộng đồng nghiên cứu tức là, Yếu tố R&D, trường đại học, phòng thí nghiệm, viện giáo dục. Thomas A. Stewart chỉ ra rằng cũng giống như cuộc cách mạng công nghiệp không chấm dứt nông nghiệp vì mọi người phải ăn, thì cuộc cách mạng tri thức khó có thể kết thúc ngành công nghiệp vì xã hội vẫn còn nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ vật chất. – Các ví dụ trên toàn thế giới về nền kinh tế tri thức đang diễn ra trong số nhiều người khác bao gồm Thung lũng Silicon, Hoa Kỳ; kỹ thuật hàng không và ô tô ở Munich, Đức; công nghệ sinh học ở Hyderabad, Ấn Độ; điện tử và phương tiện kỹ thuật số ở Seoul, Hàn Quốc; công nghiệp hóa dầu và năng lượng ở Brazil. Nhiều thành phố và khu vực khác cố gắng tuân theo mô hình phát triển dựa trên tri thức và nâng cao cơ sở tri thức của họ bằng cách đầu tư vào các cơ sở giáo dục đại học và nghiên cứu nhằm thu hút lao động có kỹ năng cao và nâng cao vị thế của mình trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Tuy nhiên, bất chấp các công cụ kỹ thuật số dân chủ hóa việc tiếp cận tri thức, nghiên cứu cho thấy rằng các hoạt động kinh tế tri thức vẫn tập trung như mọi khi trong các lõi kinh tế truyền thống. Sự phát triển kinh tế hiện tại và trong tương lai sẽ bị chi phối nhiều bởi công nghệ và sự mở rộng mạng lưới, đặc biệt là về tinh thần kinh doanh xã hội dựa trên tri thức và tinh thần kinh doanh nói chung. Nền kinh tế tri thức đang kết hợp với nền kinh tế mạng, trong đó tri thức được bản địa hóa tương đối hiện đang được chia sẻ giữa các mạng khác nhau vì lợi ích của toàn bộ các thành viên mạng, để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô ở quy mô rộng hơn, cởi mở hơn.
kinh doanh tri thức